Công Ty Cổ Phần Trà Thảo Dược Trường Xuân

Phân phối sỉ & lẻ trà thảo dược, thảo dược quý hiếm, bột thảo dược chăm sóc sắc đẹp.

Website: www.thaoduocquy.vn và www.duoctruongxuan.vn

VPGD: Phòng 310 Nhà 7, Tập thể Đại học Thủy Lợi, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Tp. Hà Nội.

Showroom: 36 ngõ 165 đường Chùa Bộc, quận Đống Đa, Tp. Hà Nội.

Chi Nhánh Thành Phố Hồ Chí Minh:

15A Cô Bắc, phường 1, quận Phú Nhuận

Tel: 024 3564 0311                   Hotline/Zalo: 0978 491 908 - 0984 795 198.

 

  Bất giác hồi hương

BẤT GIÁC HỒI HƯƠNG

Còn gọi là đại Bất giác hồi hương, bát giác Bất giác hồi hương hương, đại Bất giác hồi hương hương.

Tên khoa học Illicium verum Hook.f.

Thuộc họ Bất giác hồi hương Illiciaceae.

Đại Bất giác hồi hương hay bất giác Bất giác hồi hương hương (Fructus Anisi Stellati hoặc Anisum stellatum hay Illicium) là quả chín phơi khô của cây Bất giác hồi hương.

A. Mô tả cây

Bất giác hồi hương là một loại cây nhỡ cao 2-6m, hình dáng toàn cây thon hình quả trám, sanh tôt quanh năm, thân mọc thẳng, cành dễ gẫy. Là mọc gần thành chùm 3-4 lá ở đầu cành, có cuống, phiến lá nguyên, dài 8-12cm, rộng 3-4cm, dòn, vò mát có mùi thơm. Hoa khá to, mọc đơn độc ở kẽ lá, cánh hoa màu trắng ở phía ngoài, hồng thắm ở mặt trong. Quả Bất giác hồi hương (nhân dân vẫn gọi nhầm là hoa Bất giác hồi hương) tiếng thổ là mác Bất giác hồi hương hay mác chác gồm 6-8 đại (cánh), có khi tới 12-13 đại xếp thành hình ngôi sao, đường kính trung bình 2,5-3cm, dày 6-10mm. Tươi có màu xanh, khi chín khô cứng thì có màu nâu hồng. Trên mỗi đại lá sẽ nứt làm hai, để lộ một hạt nâu màu nhạ, nhẵn bóng. Lá cuống, hoa và quả đều chứa tinh dầu.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Cây Bất giác hồi hương đặc biệt chỉ mọc trong một khu vực nhỏ chiếm khoảng 5.000km2 ở tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn một số ít ở hai tỉnh Quảng Tây và Quảnh Đông (Trung Quốc) giáp giới Việt Nam. Một số nơi khác cũng có trồng nhưng không đáng kể như Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Thái Nguyên. Trước đây người ta thường lẫn nó với cây Bất giác hồi hương Nhật Bản Illicium anisatum Lour có chất độc, hoặc cây Bất giác hồi hương núiIllcium griffithii cũng có chất độc.

Bất giác hồi hương hái vào hai vụ tháng 7-8 (Bất giác hồi hương mùa) và 11-12 (Bất giác hồi hương chiêm). Ngoài hai vụ chính, còn một vụ quả lép rụng sớm vào tháng 3. Bất giác hồi hương hài về phơi nắng cho khô hẳn. Dùng cất tinh dầu hay tiêu thụ nguyên quả làm thuốc.

Mỗi cây, hàng năm cho từ 80-100kg quả tươi và như vậy luôn trong 40-50 năm. Thường một năm được mùa, một năm kém. Trên thị trường người ta chia Bất giác hồi hương thành ba loại.

Loại 1: có 8 cánh to đều nhau, màu nâu đỏ (Bất giác hồi hương đại hông)

Loại 2: có 3 cánh trở lên bị lép, màu nâu đen.

Loại 3: có 3 cánh trở lên bị lép, màu nâu đen.

Loại Bất giác hồi hương xô gồm lẫn lộn cả 3 loại trên.

C. Thành phần hoá học

Trong quả Bất giác hồi hương ngoài các chất như chất nhầy, đường, chủ yếu chứa trong tinh dầu tè 3-3,5 % (tươi) hoặc 9-10% hay hơn (khô). Tinh dầu Bất giác hồi hương là một chất lỏng không màu, hay vàng nhạt, tỷ trọng ở +150C đến 0,980, độ đông đặc từ 14 đến 180C. Trong tinh dầu có 80-90% anethol, còn lại là tecpen, pinen, dipenten, limomem, estragola, sảola, tecpineola v.v...

Lá Bất giác hồi hương cũng chứa tinh dầu với thành phần gần tương tự. Độ đông đặc hơi thấp hơn (13-140C), nhưng nếu trộn cả tinh dầu là và tinh dầu quả thì ta được một tinh dầu có độ đông vào khoảng 100C.

D. Công dụng và liều dùng

Bất giác hồi hương là một vị thuốc được dùng trong cả đông y và tây y.

Tây y dùng Bất giác hồi hương làm thuốc trung tiên, giúp tiêu hoá, lợi sữa, tác dụng trên hệ thần kinh và cơ (dịu đau, dịu co bóp) được dùng trong đau dạ dày, đau ruột và trong những trường hợp dạ dày và ruột co bóp quá mạnh. Ngoài ra còn được dùng làm rượu khai vi, làm thơm thuốc đánh răng. Tuy nhiên dùng nhiều và với liều quá cao sẽ gây ngộ độc, với hiện tượng say, tay chân run, sung huyết não và phổi, trạng thái ngây có khi tới co giật như động kinh.

Theo tài liệu cổ đại Bất giác hồi hương có vị cay, tính ôn, vào 4 kinh can, thận tỳ và vị. Có tác dụng đuổi hàn, kiện tỳ, khai vị, dùng chữa nôn mửa, đau bụng, bụng đầy chướng, giải độc của thịt cá. Những ngươi âm hư, hoả vượng không dùng được.

Thường dùng hiện nay làm thuốc giúp sự tiêu hoá ăn uống không tiêu, nôn mửam đau nhức tê thấp. Mỗi ngày dùng 4 đến 8g dưới dạng thuốc sắc. Dùng ngoài ngâm rượu xoa bóp chữa đau nhức, tê thấp.

Ngoài ra Bất giác hồi hương còn được dùng làm gia vị, chế húng lìu nấu thịt bò, các thịt khác.

Những vị thuốc khác mang tên Bất giác hồi hương

Ngoài cây đại Bất giác hồi hương nói trên, hiện ta đang di thực thêm cây tiểu Bất giác hồi hương hay Bất giác hồi hương hương có tên khoa học Foeniculum vulgare Miller thuộc họ Hoa tán. Đây là một loại cỏ nhỏ, phiến là cắt thành sợi, thoáng trông giống lá cây vò có mùi thơm của Bất giác hồi hương.

Quả nhỏ như hạt thóc được dùng làm thuốc với tên Bất giác hồi hương hương hay tiểu Bất giác hồi hương hương hoặc tiểu Bất giác hồi hương - Foeniculum - Fructus Foeniculi. Trong quả có 3-12% tinh dầu với thành phần chủ yếu là 50-70% anethol, ngoài ra còn estragol, metyleugnol, andehyt và axeton anisic, camphen. Cùng một công dụng như đại Bất giác hồi hương.

Tại các hiệu thuốc tây ở nước ta trước đây, cũng như dược điển cá nước châu âu thường dùng quả một cây khác:Dương Bất giác hồi hương hương - Pimpinella anisum L. cũng thuộc họ Hoa tán. Quả nhỏ hình trứng, dưới đáy phình ra. Thành phần và công dụng tương tự như đại Bất giác hồi hương và tiểu Bất giác hồi hương.